Công nghệ sinh học và dinh dưỡng
Với những thành tựu của Công nghệ sinh học trong hơn 30 năm qua, ngày nay, ngành công nghiệp chế biến đã có những bước phát triển ghê gớm làm thay đổi thành phần dinh dưỡng cơ bản bằng những hoạt chất sinh học hay biến đổi gen di truyền trong giống thực vật lẫn động vật để tăng tính đề kháng, ngăn ngừa cũng như chữa trị những tật bệnh “khó tính” (nan y). Nhiều sản phẩm chống oxít hóa, lão hóa bằng những hoạt chất sinh học như selen hữu cơ, carotenoid, Alinxin, Zingerol, các tiền hormonee steroid (từ động vật) khá được ưa chuộng trên thị trường châu Âu.
Một thành tựu đáng lưu ý trong những năm gần đây trong lĩnh vực nầy là những hoạt chất họ Peptide có chuỗi ngắn, trọng lượng phân tử thấp để điều khiển các hệ Enzyme trong cơ thể để chống tăng huyết áp như Dipeptide là phân tử có hoạt tính cao trích từ thịt của Cá cơm để ức chế ACE (một enzyme chuyển hóa antegiotensin) ngăn ngừa huyết áp tăng đột ngột. Tetrapeptide chống thụ thai, Hetapeptide ức chế di căn của tế bào ung thư, Hexadeca peptide kính thích (tăng cường) hệ miễn dịch… là những thành tựu đáng kể của công nghệ Enzyme. Điều nầy cho thấy nhiều hoạt chất sinh học từ cây cỏ, động vật, vi sinh vật (men)… được bổ sung trong thực phẩm nhằm tăng thêm “chức năng” phòng chống tật bệnh như đã nêu. Tuy nhiên, những thành tựu nầy không được một số nhà khoa học và tổ chức về môi trường (như Green Peace - tổ chức Hòa bình xanh ở châu Âu) và lãnh đạo tôn giáo đồng tình, tỏ ý lo ngại việc thay đổi Gen di truyền tạo ra một giống thực vật (cây trồng mới như Đậu nành, bắp, khoai tây…) tuy có sức đề kháng sâu bệnh, cho năng suất cao nhưng liệu có an toàn cho con người, liệu sẽ ảnh hưởng đến sự chuyển hóa bình thường trong cơ thể theo qui luật tự nhiên (của tạo hóa) khi tiếp nhận thức ăn biến đổi Gen hay không, ảnh hưởng lên di truyền của loài người và hệ sinh thái như thế nào. Đây là những nghi vấn mà các nhà sản xuất sản phẩm nông nghiệp biến đổi Gen chưa giải đáp nổi nhưng vẫn đưa sản phẩm của mình ra thị trường ào ạt.
Hơn 70% sản phẩm nông nghiệp ở Hoa Kỳ ngày nay là sản phẩm biến đổi Gen là một thực tế mà ngay FDA cũng không thể ngăn cản, giao phó sự chọn lựa cho người tiêu dùng bằng cách bắt buộc nhà cung cấp phải ghi rõ “sản phẩm biến đổi Gen” trên bao bì đóng gói. Ngày nay trên thị trường Hoa Kỳ người tiêu dùng bị lóa mắt bởi những hoa quả, cây trái như “Cà chua chống ung thư” “Ngô (bắp) giàu Vitamin E” hay “đậu nành có chất béo không bão hòa có độ dinh dưỡng cao” hoặc “Gạo giàu Vitamin A”… từ phương pháp canh tác và nuôi trồng theo Công nghệ sinh học, không kể các loại thực phẩm chế biến.
Mặt khác những TPCN thường bị phóng đại, thổi phồng hiệu dụng, là sản phẩm chưa đảm bảo an toàn hoặc chưa đủ cứ liệu khoa học để chứng minh, còn nằm trong phạm trù thử nghiệm “in vitro” chưa được kiểm nghiệm theo những qui định và tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm hay dược phẩm. Khuynh hướng cường điệu tác dụng “ngăn ngừa tật bệnh” của TPCN, cho rằng những chất cơ bản của lương thực như đạm, đường, chất béo… đóng vai trò phụ trong khi TPCN trở thành chủ yếu trong vấn đề dinh dưỡng của con người trong xã hội phát triển, dư thừa dưỡng chất. Từ đó sinh ra tâm lý lạm dụng hoạt chất sinh học để tăng cường cơ bắp, duy trì sự chịu đựng khốc liệt trong hoạt động thể dục thể thao bằng những loại thuốc “dopping” nguy hiểm, nhiều trường hợp gây tử vong gây đột quị, tai biến đột ngột như chúng ta thường nghe thấy. Ngoài ra các loại rượu “thuốc”, TPCN tăng cường khả năng sinh lý của nam giới cũng phát triển mạnh mẽ qua các loại thức ăn truyền thống như Rùa, Baba, Cá ngựa, Nhung… hay bổ thận, tráng dương như Viên nang Ngự Lộc Tinh (máu hươu + giao cổ lan + phục kinh), Chế phẩm Khang Thai, Cường Lực sĩ… dành cho vận động viên, Hải văn huyết nguyên (chế biến từ Ốc vằn) và hằng nghìn loại TPCN tương tự của Trung Quốc.
Các chứng bệnh hiện đại và Thực phẩm chức năng (TPCN)
Mặt khác, hiện nay số người mắc bệnh như tiểu đường, nhiễm ung thư gan siêu vi, huyết áp cao, nhiều mỡ trong máu, béo phì (chiếm 30-40% ở các nước phát triển), khả năng miễn nhiễm suy yếu… trong xã hội công nghiệp phát triển ngày càng tăng. Có nhiều lý do đưa đến hiện tượng nầy như cường độ làm việc căng thẳng, thức ăn chế biến hay đời sống lương thực bất bình thường, nhiều chất béo, dầu mỡ hay thịt cá có hormone tăng trọng, thuốc trừ sâu thực vật, phụ gia, hoạt chất hóa học như gia vị, tạo ngọt, mùi, phẩm màu… đã làm cho con người hiện đại lâm vào các chứng bệnh mạn tính, nan y như ung thư, tiểu đường, viêm gan, suy thận, béo phì… mà chi phí chữa chạy vô cùng tốn kém, trong đó các chứng bệnh do lão hóa gây ra như gãy xương, mất trí nhớ (Alzheimer)… ở những người cao tuổi vẫn chưa có giải pháp can thiệp hiệu quả trong khi tỷ lệ người mắc bệnh ngày càng tăng một cách đột biến. Do đó khuynh hướng quay trở về với thực phẩm thiên nhiên, khai thác bổ sung những kinh nghiệm về y học cổ truyền (Đông-Nam dược) là xu thế phát triển của ngành TPCN, hạn chế tối đa việc đưa hóa chất vào cơ thể, làm suy yếu tính đề kháng, miễn dịch… nhưng thực tế lại có khi ngược lại khi càc nhà chế biến không có hiểu biết về y-dược lý, dùng nguyên liệu (dược liệu) thô, giả hay đã bị rút tinh chất, thậm chí có trường hợp pha chế thêm dược liệu tây y một cách bí mật để tăng hiệu quả, dễ dàng lừa gạt người tiêu dùng với những lời lẽ quảng cáo khuếch trương.
Các chứng bệnh không lây lan và vai trò của dinh dưỡng
* Tim mạch và tai biến giết 12 triệu người/năm
* Ước lượng có 177 triệu người bị Tiểu đường týp 2. Trong đó 2/3 người mắc bệnh là ở các nước đang phát triển
* Hơn 1 tỷ người thừa trọng lượng (béo phì)
* Cao huyết áp (CHA) khoảng 600 triệu người trên toàn thế giới, 13% bị tử vong và 4.4% bị tật nguyền. 2/3 số người bị tai biến là do CHA, thường ảnh hưởng đến tim mạch, suy thận và tai biến mạch máu não
* Mỡ trong máu cao tăng nguy hiểm cho bệnh suy tim. 18% người bị tai biến và 56% bị suy tim, 7.9% người bị tử vong vì mỡ trong máu cao.
* Ăn ít trái cây, thiếu rau xanh sẽ làm tăng nguy cơ bị ung thư, suy tim và tai biến.
(Nguồn: WHO, số liệu về các chứng bệnh mạn tính và chiến lược toàn cầu)
Ung thư ở Mỹ
35 % người bị ung thư ở Hoa Kỳ bắt nguồn từ thói quen và cách ăn uống mà ra như ăn quá nhiều dầu mỡ, nhiều thịt đỏ, ít chịu ăn rau cải và trái cây tươi
(Food and Nutrition của National Research council Hoa kỳ)
Các loại thực phẩm chức năng ở Hoa Kỳ
Nhóm đáng tin cậy:
* Kẹo cao su không đường hay kẹo cứng làm bằng loại đường có gốc Rượu (không gây sâu răng)
* Những loại làm giảm Cholesterol và nguy cơ tim mạch chế biến từ Yến mạch (giàu chất xơ không tan) và Stanol Ester, thực phẩm có chất xơ Psyllium hòa tan, thực phẩm từ đậu nành, đạm đậu nành có hoạt chất Stanol Ester, Saponin, Isoflavones, bơ thực vật có bổ sung Stanol thực vật hay Sterol Esters.
Nhóm có bằng chứng đáng tin cậy:
*Cá nhiều mỡ chứa Acide béo Omega-3 giảm nguy cơ tim mạch
* Tỏi có các hợp chất lưu huỳnh hữu cơ như Diallyl Sulfide giảm Cholesterol trong máu
* Nước ép trái cây Cranberry có Proanthocyanidins giảm nguy cơ nhiễm trùng đường tiểu
Nhóm có bằng chứng nhưng chưa đủ tin cậy:
* Trà xanh chứa Catechin làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư đường tiêu hóa
* Lycopene trong cà chua và sản phẩm từ cà chua giảm nguy cơ một số bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư tiền liệt tuyến
Nhóm còn tranh cãi
* Rau có lá màu xanh đậm, chứa Lutein giảm nguy cơ bệnh thoái hóa võng mạc
* Các loại rau họ cải (bông cải xanh, cải bẹ…) chứa hoạt chất Sphoraphane có tác dụng trung hòa các chất gốc tự do (free radicals) làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư.
* Probiotic (như vi khuẩn Lactobacillus) có lợi cho tiêu hóa và chức năng miễn dịch.
(Theo: Hội đồng Khoa học và Sức khỏe Hoa Kỳ)
Thị trường thế giới của TPCN (2004-2006)
Đơn vị tính (sản phẩm) |
2004 |
2005 |
2006 |
Tổng cộng |
Tiêu hóa |
166 |
252 |
656 |
1074 |
Tim mạch |
115 |
156 |
268 |
539 |
Thần kinh/Não |
33 |
68 |
92 |
193 |
Miễn dịch |
44 |
53 |
78 |
175 |
Xương |
17 |
23 |
89 |
129 |
Sắc đẹp |
16 |
24 |
46 |
86 |
Loại khác |
833 |
840 |
1059 |
2732 |
Tổng cộng |
1224 |
1416 |
2288 |
4928 |
Hồng Lê Thọ
chức năng, thực phẩm